Mậu Tý, Giáp Ngọ khí nan đương (khí ác khó chịu)
Âm dương sai thác, thị (là) không vong
Hốt thính sư nhân chân khẩu quyết (tức là phép truyền khẩu)
Lập trạch (nhà) an phận (mả) kiên Tốn thương
Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất (ứng vào 6 năm này)
Tật bịnh quang tai (thưa kiện) tổn nhị phòng (con thứ 2)
Quan tặc khiên liên (kéo dài) phòng phòng chiêm (cả các con)
Nê thủy nhập mộ (mộ) bất phi thường (độc lắm).
******
Kỷ Sửu, Ất Mùi, khí hung bạo (dữ tợn)
Kỳ trung hỏa khanh, tối bất lương
Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi (ứng vào 6 năm)
Tật bịnh quang tai, thoái điền trang
Bạch nghĩ (môi trắng) biện tòng đế hạ (dưới đáy) nhập
Tổn thê, khắc tử, tại tam phòng (con thứ 3)
Thử phân (mộ này) nhược hoàn (nên còn) bất cải dĩ
Tử tôn tháp tự (giống như) ngõa thượng sương (tuyết)
Canh Dần, Bính Thân, khí bất lương
Lập trạch, an phân, tổn trưởng phòng
Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất
Tổn thê, khắc tử tối nan đường
Tật bịnh quang tai, phòng phòng chiếm (lẫn cả cho con)
Thủy, hỏa, khiên liên tổn ấu phòng (con trẻ nhỏ)
Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập
Điền trang thoái bại, thủ không phòng
(nghĩa là kiến, mối,… dưới đáy quan mà vào khoét, thì ruộng nương tan hết, giữa buồng rỗng tuếch)
Tân Mão, Đinh Dậu bãi vi cường (chẳng phải mạnh)
Lập trạch, an phân, tổn nhị phòng
Hợi, Mão, Mùi niên, Tị, Dậu, Sửu
Tật bịnh, quang tai, tổn tam phòng
Thủy, hỏa Khôn liên, đa hoành sự
Nhân Thân liên lụy, phòng phòng đương (cả các con)
******
Nhâm Thìn, Quý Tị khí như thương (mũi nhọn)
Lập trạch, an phân tổn tam phòng
Thân. Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất
Tật bịnh, quang tai, tổn tiểu phòng (con út)
Hậu đại nhi tôn, đa tăng đạo
Tổn thê, khắc tử, bất an khang.
******
Mậu Tuất, Kỷ Hợi thị không vong
Lập trạch, an phân tổn trưởng phòng
Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi
Tật bịnh, quan tai, tổn tiểu phòng
Thủy, hỏa khiên liên, xuất ngoại tử (chết)
Điền địa, nhân tài, như tuyết sương
Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập
Nhi tôn ngỗ nghịch, tẩu tha hương.
Tiên Thánh nói: ở dưới chỗ huyệt ngồi mà không được là chân khí mạch, thì dầu có muôn tầng núi trùng trùng, điệp điệp ở trước mặt cũng coi như là không có gì cả.
Chỗ đặt mộ mà được long mạch tốt đẹp hoàn toàn, thì dù có ít sơn sa, cũng có thể phát
phú quý được, chính là bảo vệ lý khí ở bài trên đây.
Bính Tý, Canh Tý 2 vòng này là châu bảo, đó là “Tầng thừa sinh khí” là được cái linh
khí của núi sông. Vậy lấy là cái tốt hàng đầu của 36 vòng La kinh.
THẤU ĐỊA LỤC THẬP LONG THỨC
Bên dưới mỗi chữ về thấu địa có ghi rõ chữ số tam (3), thất (7), ngũ (5), và chữ chính,
làm 1 vòng đến chữ thiên chính, đã bày ở tầng thứ 14.
Đặt táng vào hỏa khanh, thì huyệt sẽ có mối, kiến, rễ cây và bùn nước chiếm ngâm nát
hài cốt, đất trên mả khô khan, cây cỏ héo hon như phân trâu, bò, con cháu sinh dâm loạn, yểu vong, cô quả, sinh ra người ngỗ nghịch, điên cuồng, người hết, của hao, tai họa, kiện cáo liên miên v.v…
Đặt táng vào huyệt châu bảo, mở xem hẳn là thấy có sinh khí ôn nhuận, đất có ngũ sắc
vân như hồng hoàng, sáng sủa, lại có tơ hồng, dây tía phủ quấn quan tài, hài cốt. Đất trên mộ thì có khí mát, ẩm dịu, cây cỏ xanh tươi tốt. Vậy sinh ra phú quý không sai.
SƯU TẦM http://vnthuquan.net/diendan/%28S%284uk55k55cidmaz55fywcpl55%29%29/tm.aspx?m=370828&mpage=2&key=
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét