(HNMĐT)
- Làng Trung Kính Hạ tên Nôm là làng Giàn, vốn từ làng Kính Chủ, tức
Trung Kính tách ra. Theo thần phả và truyền thuyết, vào đời Hùng Duệ
Vương, Kính Chủ đã là một trang đông đúc, cảnh đẹp, dân sống ổn định.
Khi trong nước có giặc phía Tây xâm lấn, có ông Hùng Nộn người dòng dõi
vua, làm chủ trưởng Ô Châu đã đem quân đến đóng ở Kính Chủ để làm một
điểm phòng ngự chống giặc.
Ông
lấy người con gái trong trang là Nguyễn Thị Cẩn (Cẩn Nương), đẹp người,
đẹp nết làm vợ. Về sau, hai ông bà dẫn đại quân (trong đó có 142 trai
tráng của trang) ra trận đánh giặc phương Bắc xâm lấn. Giặc tan, Hùng
Nộn được phong làm Bảo Quốc hầu, rồi Bảo Quốc công, cho lập dinh cơ ở
giữa cánh đồng, trên một khu đất cao gọi là Gò Đường. Dân làng Kính Chủ
cũng theo ra đó lập trại. Sau đó, người các nơi, đông nhất là người các
làng Yên Quyết (Cót), An Thọ cũng đến sinh sống đông dần, trở thành làng
mới gọi là làng Giàn, tên
chữ là Trung Kính Hạ, cùng với thôn Thượng hợp thành xã Trung Kính (từ
đầu thế kỷ XIX trở đi thuộc tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức;
năm 1942 thuộc Đại lý Đặc biệt Hà Nội). Năm 1926, dân số của cả xã
Trung Kính là 1531 người. Dân đinh của làng Giàn chia làm ba giáp (Nhất,
Đông, Cả).
Năm
1949, làng Giàn nhập với hai làng Trung Kính Thượng và Hòa Mục thành xã
Trung Kính thuộc quận VI ngoại thành Hà Nội. Năm 1955 xã Trung Kính đổi
thành xã Trung Hòa thuộc quận V, năm 1961 thuộc huyện Từ Liêm. Đến năm
1997 xã Trung Kính trở thành phường thuộc quận Cầu Giấy.
Dân
làng Giàn cũng như làng Thượng xưa đều sống bằng nông nghiệp. Trước
Cách mạng Tháng Tám 1945, làng có rất nhiều ruộng, trong đó có một số
lớn ruộng công đem chia cho các trai đinh, nhiều ít tùy từng giáp (giáp
Đông và giáp Cả mỗi người được một sào, giáp nhất được nửa sào). Tuy
nhiên, phần lớn số ruộng tư đều nằm trong tay các địa chủ nên dân làng
phải lĩnh canh ruộng của làng Cót bên cạnh. Dân làng Giàn làm ruộng rất
giỏi, thường đạt năng suất cao nên có nhiều thóc. Câu ca “Lúa làng Giàn quan Kẻ Mọc” xuất phát từ đây.
Ngoài
trồng lúa, làng Giàn có nghề làm hương sạ. Việc làm hương này cầu kỳ
hơn làm hương đen của làng Thượng, để hương nhỏ đều và thơm. Tại giữa
làng hiện vẫn còn ngôi miếu thờ tổ nghề làm hương (không rõ là ai). Hàng
năm, những người làm nghề đem lễ đến đây để nhớ đến tổ nghề. Từ nghề làm hương, dân làng lại học nghề chẻ tăm, vót đũa để bán.
Làng
Trung Kính Hạ còn ngôi chùa Báo Ân, chưa rõ được dựng từ bao giờ. Trong
chùa hiện còn quả chuông đúc năm Chính Hòa thứ 13 (1392) ghi tên những
người cúng tiền để đúc chuông, trong đó có cả một số vương phi, quận
chúa.
Làng
Giàn cũng có Văn chỉ dựng ở đầu làng. Đây là Văn chỉ chung cho cả làng
Thượng, tuy nhỏ nhưng khá đẹp. Do làng không có người đỗ đạt nên bia đều
không ghi chữ, song hàng năm, vào dịp Xuân - Thu tế (ngày Đinh của tháng Hai và tháng Tám), hội Tư văn vẫn đến tế.
Làng
Giàn tổ chức hội cùng với làng Thượng. Ngày mồng hai tháng Chín là ngày
thần khao quân, mỗi giáp phải có một cọn lợn lợn đực đen tuyền, do một
người trong giáp đến lượt nuôi rất cầu kỳ, cẩn thận hàng năm trời (tục
nuôi lợn thờ) đem giết để tế thần. Ngày mồng 10 tháng Hai là ngày sinh
của thần, hai làng rước bài vị từ đình thôn Thượng xuống thôn Hạ rồi lại
rước về. Mỗi giáp chỉ làm cỗ xôi gà để tế.
Ngày nay, làng Giàn - Trung Kính Hạ đã trở thành phố phường với nhiều khu nhà cao tầng mọc lên - khu đô thị Trung Hòa.
TS. Bùi Xuân Đính
http://hanoimoi.com.vn/forumdetail/1000_nam_thang_long/42885/lang-gian-%E2%80%93-trung-kinh-h7841.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét