Chương pháp
章法
là bố cục
bức thư
pháp. Trước
tiên, chúng
ta cần quan
sát hình
thức một bức
thư hoạ
(từ ngữ
chỉ chung
thư pháp
và tranh
thuỷ mặc)
Trung
Quốc. Hình thức Một bức thư họa thường có các dạng như: 1. Hình chữ nhật đứng (kiểu portrait, chiều dài ít nhất gấp đôi chiều rộng), gọi là thụ phúc 豎幅, điều phúc 條幅, trực phúc 直幅, trung đường 中堂, lập phúc 立幅. Hai tấm chữ nhật đứng song song có viết câu đối thì gọi là đối liên 對聯. Đôi khi một bức thư họa ở dạng trực phúc được đặt giữa một đôi đối liên, treo trên tường. Chương pháp Bố trí chữ Hán trên mặt giấy, ta phải theo qui tắc do giới thư pháp gia Trung Quốc ấn định: * Không thụt vô đầu hàng (indent) như viết chữ Latin, dù là hàng ngang hay hàng dọc. Cách viết theo hàng dọc (hay theo cột) là cách viết truyền thống, gọi là thụ tả 豎寫; cách viết theo hàng ngang (như tiếng Việt, tiếng Anh) gọi là hoành tả 橫寫. Khi viết thư pháp trên phiến diện thì phải dùng thụ tả, và viết chữ vào khoảng giữa các nan quạt. * Các hàng đều và dài bằng nhau (như canh hàng justify trên máy computer). * Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng (nhất là ở hàng cuối). Do đó ta phải đếm số chữ toàn bài rồi phân chia số hàng, số chữ trong mỗi hàng cho thích hợp. * Khoảng trống ở hàng cuối không nên để dài hơn phân nửa chiều dài của hàng, vì tạo cảm giác trống trải cho người xem. Nếu lỡ bị như vậy thì ta nên ghi lạc khoản vào đó để bổ cứu. * Không được dùng dấu chấm câu (punctuation). Các chữ nối tiếp nhau suốt bài y như trong sách cổ (gọi là bạch văn 白文). * Thư thể không pha trộn phồn thể và giản thể với nhau. Thư thể ở chính văn và ở lạc khoản phải phân biệt tuyển dụng cho hài hòa:
Lạc
khoản
Lạc khoản 落款
cũng gọi là
khoản thức
款識, phân
thành
đơn khoản
單款 và
song khoản
雙款. Song
khoản phân
thành
thượng khoản
上款 và
hạ khoản
下款. Đơn
khoản tức là
hạ khoản.
Lạc khoản
ghi vào hàng
cuối của
bài.I. Thượng khoản: Ghi tên cá nhân hay tổ chức nhờ cậy ta thư pháp. Đây là phần trên cùng của hàng chót, là vị trí quan trọng dành ghi những tên tuổi ấy để tỏ lòng tôn trọng. Nếu tự mình thư pháp không theo yêu cầu của ai, thì không ghi gì vào thượng khoản. Thượng khoản gồm: «Tính danh 姓名 + xưng hô 稱呼 + khiêm từ 謙詞» (Trong các thí dụ sau đây, tên người tức tính danh được đánh dấu là xx). 1. Đối với người trưởng thượng, ta ghi: xx đồng chí 同志, xx tiên sinh 先生, xx phương gia 方家, xx nữ sĩ 女士, xx lão sư 老師. Nếu người đó trên 70 tuổi thì ghi xx lão 老; trên 80 tuổi thì ghi xx ông 翁. Nếu người đó là nam, hoạt động trong ngành ngoại giao thì ghi là các hạ 閣下. Còn về phần người làm thư pháp, không nhất thiết xưng hô danh tính, chỉ cần khiêm từ như: chỉ chính 指正, pháp chính 法正, giáo chính 教正, chính tự 正字, chính uyển 正腕, chính chi 正之, thanh thưởng 清賞, nhã thuộc 雅屬, nhã chính 雅正, phủ chính 斧正, chính bút 正筆, chính thư 正書. Đại khái nói khiêm tốn rằng: Xin nhờ ngài xem và sửa giúp cho tôi những chỗ còn vụng. Nếu tặng cho người ấy thì ghi là nhã tồn 雅存, huệ tồn 惠存, hay huệ niệm 惠念. Thí dụ: Nguyễn Hiền tiên sinh thanh thưởng 阮賢先生清賞; Quốc Tuấn phương gia chính bút 國俊方家正筆; Văn Tần các hạ huệ niệm 文秦閣下惠念. 2. Đối với người ngang hàng, ta ghi: xx đồng chí 同志, xx nhân huynh 仁兄, xx nhân đệ 仁弟, xx thư hữu 書友, xx chí hữu 摯友, xx đồng song 同窗, xx đại huynh 大兄, xx hiền đệ 賢弟, xx tiểu đệ 小弟, xx tiểu muội 小妹, xx học hữu 學友, xx bào huynh 胞兄, xx bào đệ 胞弟. Khiêm từ có thể là: tồn niệm 存念, huệ tồn 惠存, lưu niệm 留念, lưu tồn 留存, thanh thưởng 清賞, mệnh thư 命書, nhã thuộc 雅屬. Thí dụ: Minh Hoa thư hữu huệ tồn 明華書友惠存; Vĩnh Lạc hiền đệ nhã thuộc 永樂賢弟雅屬. 3. Đối với người nhỏ tuổi hơn mình hoặc thuộc cấp, ta ghi: xx học sinh 學生, xx hiền khế 賢契, xx hiền điệt 賢侄, xx ái tôn 愛孫, xx ái nữ 愛女, v.v... tùy vai vế. Khiêm từ ghi: minh ký 銘記, chúc thư 囑書. Thí dụ: Hiểu Phàm ái nữ minh ký 曉凡愛女銘記; Văn Hoa hiền khế chúc thư 文華賢契囑書. Phần kế tiếp của thượng khoản là ghi xuất xứ của chính văn. Có thể đó là thi từ, văn cú, cách ngôn, câu răn lòng. Rồi ghi tên tác giả và nhan đề. Thí dụ: Vương Bột Đằng Vương Các tự cú 王勃滕王閣序句; Đỗ Phủ thi khách chí 杜甫詩客至. Nếu nội dung chính văn quá nổi tiếng, ta không cần ghi xuất xứ. Thí dụ: «Độc thư phá vạn quyển, hạ bút như hữu thần.» 讀書破萬卷下筆如有神. II. Hạ khoản: Nếu không có phần thượng khoản thì phần hạ khoản phải gọi là đơn khoản. Nội dung của hạ khoản gồm: «Thời gian 時間 + địa điểm 地點 + tính danh 姓名 (biệt hiệu 別號) + khiêm từ 謙詞». 1. Thời gian: Ghi từ đơn vị lớn (năm) xuống dần đến đơn vị nhỏ (ngày). a. Năm có thể ghi dương lịch hoặc âm lịch. Thí dụ: Nhất cửu cửu bát niên lục nguyệt 一九九八年六月, Mậu dần niên lựu nguyệt 戊寅榴月 hoặc Mậu dần chi hạ 戊寅之夏. b. Tháng ghi theo âm lịch có nhiều tên như:
c. Bốn mùa:
e. Một số ngày đặc biệt:
3. Tác giả: Ta ghi tên hoặc họ hoặc cả hai, rồi thêm chữ thư 書. Thí dụ: Lê Anh Minh 黎英明, hoặc Anh Minh thư 英明書, hoặc Lê Anh Minh thư 黎英明書. 4. Khiêm từ: Nếu ta thư pháp để đưa cho bậc trưởng thượng hoặc một chuyên gia về thư pháp thì sau tên của ta, ta ghi thêm khiêm từ: thư phụng 書奉, phụng thư 奉書, kính thư 敬書, cung lục 恭錄, kính lục 敬錄. Thí dụ một hạ khoản đầy đủ: Mậu dần niên hạnh nguyệt hạ hoán ư Cổ Phong Đường Lê Anh Minh kính thư 戊寅年杏月下浣於古風堂黎英明敬書. Tóm tắt: Dưới đây là đầy đủ các phần của lạc khoản, viết theo cột từ trên xuống:
Ấn chương Ấn chương đã được giải thích thành một bài riêng. Ở đây ta nhận xét cách đặt ấn chương trên một bức thư họa: Trên đây là những điều rất cơ bản về chương pháp. Như đã nói trong bài Ấn chương, một tác phẩm thư hoạ từ hình thức đến nội dung và các chất liệu cấu tạo phải là một chỉnh thể hài hoà. Một bức thư họa do đó được gọi là «kim thạch thư họa cộng nhất thể» 金石書畫共一體 (ấn triện bằng đá hay vàng, thư pháp, hội họa hợp nhất thành một thể). Tuy nhiên, ấn chương kim loại, nét sắc lẽm trên bức thư hoạ chưa phải là đẹp. Ấn bằng đá hay ngọc, lâu ngày bị sứt mẻ do va chạm hay rơi rớt. Khi đóng lên bức thư hoạ, nó chẳng những tạo nét cổ kính riêng, lại còn gợi ra sự bất toàn trong một chỉnh thể, như Lão Tử nói: «Đại thành nhược khuyết.» (viên mãn mà như còn thiếu). Đó mới chính là nét đẹp thâm trầm đầy triết lý Đông phương.● |
Translate
Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013
CHƯƠNG PHÁP
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét